Theo biểu hiện của nguồn lực, gồm các nguồn lực hữu hình (nhân
lực, vốn, máy móc, thiết bị, các nguồn lực vật chất..) và nguồn lực vô hình
(trí tuệ, uy tín, thương hiệu, mối quan hệ…). Khi các nguồn lực hữu hình ngày
càng hạn chế thì người ta càng chú ý khai thác và phát triển các nguồn lực vô
hình.
Ba nội dung trên tuy được trình bày một cách riêng rẽ nhưng chúng
có mối quan hệ với nhau. Để có một kế hoạch khả thi, các mục tiêu phải được xác
định phù hợp với nguồn lực có thể có. Việc đề ra các giải pháp phải xuất pháttừ
mục tiêu và hướng đến mục tiêu. Quan điểm lập kế hoạch hướng tới kết quả đòi
hỏi nhà quản lý phải từ mục tiêu cần đạt mà tính toán các nguồn lực đầu vào cần
phải huy động. Hơn nữa nguồn lực có thể có lại phải chịu ảnh hưởng bởi chính
những giải pháp mà nhà quản lý dự kiến.
Mục tiêu
-
Cung ứng nguồn nhân lực chất lượng cao cho các cơ quan quản lý Nhà nước về kinh
tế từ trung ương đến địa phương.
-
Đào tạo cử nhân kinh tế có phẩm chất chính trị, đạo đức và sức khỏe tốt, nắm
vững kiến thức cơ bàn về kinh tế – xã hội, đáp ứng được yêu cầu của thị trường
lao động.
-
Đào tạo cử nhân có năng lực chuyên môn về kinh tế, có khả năng phân tích, hoạch
định chính sách và giải quyết các vấn đề kinh tế thuộc các lĩnh vực, các cấp
khác nhau của nền kinh tế quốc dân.
-
Những kiến thức và kỹ năng được đào tạo trong ngành kinh tế phải đáp ứng được
yêu cầu công việc mà cử nhân sẽ phải đảm nhiệm ờ nơi công tác của mình.
-
Đào tạo cán bộ quản lý kinh tế có năng lực, đáp ứng được những yêu cầu của quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế
Giải
pháp
- Hoàn
thiện mục tiêu đào tạo – cơ sở hình thành và phát triển kỹ năng nghề nghiệp của
cử nhân ngành kinh tế
-
Các trường có đào tạo cử nhân ngành kinh tế phải xác định rõ hướng đào
tạo của mình là đào tạo cử nhân nghiên cứu phát triển hay cừ nhân thực
hành ứng dụng để có chương trình và phương pháp đào tạo phù hợp.
Đọc thêm tại: